Ta có bốn cách ghép từ thông dụng giữa Danh từ, Tính từ và Động từ
1/ Tính + Danh
Khi ghép một tính từ với một danh từ theo thứ tự trên ta tạo ra một từ mới có Quan hệ bổ nghĩa. Tính từ đóng vai trò bổ nghĩa cho danh từ.
古人
今人
光日
明月
Cổ nhân
Người đời xưa
Kim nhân
Người đời nay
Quang nhật
Mặt trời sáng
Minh nguyệt
Mặt trăng tỏ
2/Động+Danh
Thay vì dùng tính từ bổ nghĩa cho danh từ thì ta có thể dùng động từ để bổ nghĩa.
行客
行理
飛機
往年
Hành khách
Người đi đường
Hành lý
Đồ đạt của người đi
Phi cơ
Máy bay
Vãng niên
Năm qua/ngoài
3/ Danh + Động
Khi đặt động từ sau danh từ ta có quan hệ tạo cú. Từ mới hình thành có nghĩa như một câu (cú 句) hoàn chỉnh.
人行
馬走
鳥飛
花開
Nhân hành
Người ta đi
Mã tẩu
Con ngựa chạy
Điểu phi
Con chim bay
Hoa khai
Hoa nở
4/ Danh + Tính
Đây cũng là quan hệ tạo cú. Thay vì dùng động từ thì ta dùng tính từ sau danh từ.
人大
人小
日光
月明
Nhân đại
Người (thì) lớn
Nhân tiểu
Người (thì) nhỏ
Nhật quang
Mặt trời (thì) sáng
Nguyệt minh
Trăng (thì) tỏ
山高
天青
地大
水深
Sơn cao
Núi cao
Thiên thanh
Trời xanh
Địa đại
Đất rộng
Thủy thâm
Nước sâu
5/ Dùng Gia từ
Một cách ghép từ rất thông dụng khác là dùng một số từ cố định (ta gọi là gia từ) rồi ghép các từ khác vào trước nó để tạo thành danh từ mới nhưng có ý nghĩa tổng quát, thường dùng để chỉ người. Cấu trúc thông dụng:
Danh/Tính/Động + Gia từ (giả,tử, nhân …)
行者
作者
兒子
君子
文人
詩人
Hành giả
Tác giả
Nhi tử
Quân tử
Văn nhân
Thi nhân
Khi chuyển sang Tiếng Việt thì chỉ có cấu trúc 1/Tính + Danh (quan hệ bổ nghĩa) là dịch ngược danh từ trước rồi tới tính từ. Bốn cấu tạo ghép còn lại ta vẫn giữ nguyên thứ tự (cấu trúc 2/Động + Danh ta vẫn giữ nguyên thứ tự đối với các từ Hán Việt thông dụng).