Âm Nhạc

Ngư Chu Xướng Vãn

đăng 09:47 13 thg 7, 2013 bởi Lỗ Bình Sơn   [ đã cập nhật 10:12 13 thg 7, 2013 ]


漁舟唱晚

Đàn Cổ Tranh


Đàn Nhị Hồ

 
 



红日照海上清风晚转凉
随着美景匆匆散
钟声山上响
海鸥拍翼远洋
要探钟声响处
无奈我不知方向
人象晚钟一般愤
美景不可永日享

船划破海浪终于也归航
无论我多依恋你
苦于了解情况
归家怨路长痴心却在远方

谁遇到风浪多少也惊惶
无力再收痴心网
心中急又慌
涌出眼泪两行
向晚景色碎
红日向山边降
前路也许昏昏暗
天边总有月光

含泪看彼岸不知你怎样
来日也许可相见
相见止于梦乡
相思路更长心曲向谁唱

 

Bình Sa Lạc Nhạn

đăng 08:48 13 thg 7, 2013 bởi Lỗ Bình Sơn


平沙落雁


Tịch Dương Tiêu Cổ

đăng 08:03 13 thg 7, 2013 bởi Lỗ Bình Sơn   [ đã cập nhật 09:09 13 thg 7, 2013 ]

夕阳箫鼓 /  春江花月夜





Bài Tịch Dương Tiêu Cổ ( Tiếng Tiêu Tiếng Trống Trong Nắng Chiều) có nhiều tên gọi khác nhau như Tịch dương tiêu ca 夕阳箫歌, Tầm dương tì bà 浔阳琵琶, Tâm dương dạ nguyệt 浔阳夜月, tầm dương khúc 浔阳曲Bài này gồm có 10 đoạn:

 

1

夕阳箫鼓 

Tịch dương tiêu cổ

2

花蕊散回风 

Hoa nhị tán hồi phong

3

关山临却月 

Quan sơn lâm khước nguyệt

4

临水斜阳 

Lâm thủy tà dương

5

枫荻秋声 

Phong địch thu thanh

6

巫峡千寻 

Vu hạp thiên tầm

7

箫声红树里 

Tiêu thanh hồng thụ lý

8

临江晚眺 

Lâm giang vãn thiếu

9

渔舟唱晚 

Ngư chu xướng vãn

10

夕阳影里一归舟

Tịch dương ảnh lý nhất quy chu

 

 

Nguồn gốc của khúc ca này lấy từ bài thơ Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ 春江花月夜 của Trương Nhược Hư 张若虚 nên có người dùng tựa bài thơ này thay tưa Tịch Dương Tiêu Cổ.

 

春江潮水连海平,海上明月共潮生。
滟滟随波千万里,何处春江无月明。
江流宛转绕芳甸,月照花林皆似霰。
空里流霜不觉飞,汀上白沙看不见。
江天一色无纤尘,皎皎空中孤月轮。
江畔何人初见月,江月何年初照人。
人生代代无穷已,江月年年只相似。
不知江月待何人,但见长江送流水。
白云一片去悠悠,青枫浦上不胜愁。
谁家今夜扁舟子,何处相思明月楼。
可怜楼上月徘徊,应照离人妆镜台。
玉户帘中卷不去,捣衣砧上拂还来。
此时相望不相闻,愿逐月华流照君。
鸿雁长飞光不度,鱼龙潜跃水成文。
昨夜闲潭梦落花,可怜春半不还家。
江水流春去欲尽,江潭落月复西斜。
斜月沉沉藏海雾,碣石潇湘无限路。
不知乘月几人归,落月摇情满江树


Tửu cuồng

đăng 07:35 13 thg 7, 2013 bởi Lỗ Bình Sơn   [ đã cập nhật 09:14 31 thg 7, 2013 ]


酒狂



Bài Tửu Cuồng là một nhạc khúc do Nguyễn Tịch trước tác, ông là một danh sĩ trong Thất Lâm Trúc Hiền thời Nguỵ Tấn

Dương Quan tam điệp

đăng 09:57 19 thg 6, 2013 bởi Lỗ Bình Sơn   [ đã cập nhật 17:53 19 thg 6, 2013 ]


陽關三疊

Đàn Nhị Hồ


Đường thi có bài tứ tuyệt "Tống Nguyên Nhị sứ An Tây" (Đưa Nguyên Nhị đi sứ An Tây) của thi hào Vương Duy nói về tiễn biệt:

渭 城 朝 雨 浥 輕 塵, 
客 舍 青 青 柳 色 新。 
勸 君 更 盡 一 杯 酒, 
西 出 陽 關 無 故 人。

Phiên âm:
Vị thành chiêu vũ ấy khinh trần,
Khách xá thanh thanh liễu sắc tân.
Khuyến quân khánh tận nhất bôi tửu,
Tây xuất Dương Quan vô cố nhân.


Thơ lục bát:
Trời mai mưa ướt Vị Thành,
Xanh xanh trước quán, mấy cành liễu non.
Khuyên người hãy cạn chén son,
Dương Quan tới đó không còn ai quen.
(Ngô Tất Tố)

Vua Đường Huyền Tông lấy bài thơ này đưa vào Nhạc phủ phổ thành một bài hát gọi là "Khúc Dương Quan tam điệp" (ba dịp Dương Quan) dùng để hát khi tiễn biệt nhau.

Thời xưa, người ta tiễn nhau thường bẻ cành liễu đưa cho người đi. Còn Dương
 Quan là một cửa ải ở biên giới tỉnh Thiểm Tây nhưng dùng nghĩa bóng là chỉ nơi tiễn biệt. Cho nên, trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du đoạn Kiều tiễn Thúc Sinh trở về quê cũ viết:

Tiễn đưa một chén quan hà,
Xuân đình thoắt đã dạo ra cao đình.
Sông Tần một dải xanh xanh,
Loi thoi bờ liễu, mấy cành Dương Quan.

Hán Cung Thu Nguyệt

đăng 08:51 19 thg 6, 2013 bởi Lỗ Bình Sơn   [ đã cập nhật 09:00 19 thg 6, 2013 ]


汉宫秋月

Tỳ Bà



Cổ Tranh




 

Khúc nhạc này còn có tên là Trần Đọa 陈隋 hoặc Truyền Thần 传神 do Ngô Uyển Khanh 吴畹卿 1847—1926truyền lại.

 

Nhạc khúc lấy hình tượng ca vũ để tả cảnh hậu cung tịch liêu, âm thanh oán uất trong những canh dài. Toàn bộ nhạc khúc trữ tình biểu hiện nổi sầu muộn và oai oán của người phụ nữ phải gửi mình ở chốn hậu cung. 

 


汉宫秋月图
HÁn Cung Thu Nguyệt Đồ
Tranh: Viên Diệu 袁耀

Dục Thuỷ Ngâm

đăng 05:23 18 thg 6, 2013 bởi Lỗ Bình Sơn   [ đã cập nhật 05:31 18 thg 6, 2013 ]

Tào Tháo thua trận ở Uyển Thành năm 197, ông nói: "Ta mất một con trưởng và một cháu yêu cũng không thương là mấy chỉ thương khóc Ðiển Vi mà thôi".

Xin nói lại sự kiện này:

Tào Tháo đem quân đi đánh Nam Dương, tiến quân đến Dục Thủy. Trương Tú liệu không chống nổi, bèn dẫn quân đến hàng. Tào Tháo ép vợ Trương Tế (thím Trương Tú – là Châu thị làm thiếp, người đàn trong phim.) Điều đó khiến Trương Tú không chỉ thấy nhục nhã mà còn sợ bị Tào Tháo xui thủ hạ của mình phản lại mình. Vì vậy Trương Tú quyết định phản lại Tào Tháo.

Giả Hủ bày mưu cho Trương Tú. Trương Tú theo kế bèn nói với Tào Tháo cho quân lính dưới quyền ông được mặc giáp và dùng vũ khí. Tào Tháo không nghi ngờ, bằng lòng cho phép. Đêm hôm đó Trương Tú bất ngờ mang quân đột kích vào doanh trại Tào Tháo, Tào Tháo bị nguy khốn và trúng mũi tên từ quân Trương Tú, nhờ có mãnh tướng Điển Vi đánh chặn một cửa để có thời gian cho Tào Tháo thoát nạn. Lần này Điển Vi mắc mưu Trương Tú, bị cắp vũ khí mà hy sinh để cứu chủ. Con cả Tào Tháo là Tào Ngang cũng bị quân Trương Tú giết chết. Còn Tào Tháo thì phải lui quân về Vũ Âm.

Dưới đây là bài Dục Thuỷ Ngâm trong phim Tam Quốc Chí (không thuộc nhạc cổ, thêm vào cho phong phú)  nói về Điển Vi:

Dục Thuỷ Ngâm




我本飄零人,

Ngã bổn phiêu linh nhân

薄命曆苦辛。

Bạc mệnh lịch khổ tân

離亂得遇君,

Ly loạn đắc ngộ quân

感君萍水恩。

Cảm quân bình thủy ân

君愛一時歡,

Quân ái nhất thời hoan

烽煙化良辰。

Phong yên hóa lương thần

含淚為君壽,

Hàm lệ vi quân thọ

酒痕掩徵塵。

Tửu ngân yểm chinh trần

燈昏昏, 帳深深,

Đăng hôn hôntrương thâm thâm

君忘情, 妾傷神。

Quân vong tìnhthiếp thương thần

一霎歡訢,

Nhất sáp hoan hân

一霎溫情,

Nhất sáp ôn tình

明日淯水頭,

Minh nhật  thủy đầu

遺韻埋香魂。

Di vận mai hương hồn

 
(có người gọi là Hán Thủy Ngâm  淯水吟)

Khổng tước đông nam phi

đăng 07:42 14 thg 6, 2013 bởi Lỗ Bình Sơn   [ đã cập nhật 09:09 19 thg 6, 2013 ]

孔雀東南飛

YouTube Video


Thưởng thức với đàn cổ tranh:

Đàn cổ tranh




 Khổng tước đông nam phi là tên một bài nhạc phủ đời Hán, đầu tiên được thấy trong "Ngọc đài tân vịnh" do Từ Lăng 徐陵 người nước Trần ở Nam triều biên soạn, đề là "Cổ thi vi Tiêu Trọng Khanh thê tác" 古詩為焦仲卿妻作 (Bài cổ thi làm thay vợ Tiêu Trọng Khanh), lời tự viết: 

漢末建安中,廬江府小吏仲卿妻劉氏,為仲卿母所遣,自誓不嫁。其家逼之,乃沒水而死。卿聞之,亦自縊於庭樹。時人傷之,為詩云爾

Hán mạt Kiến An trung, Lư Giang phủ tiểu lại Trọng Khanh thê Lưu thị, vị Trọng Khanh mẫu sở khiển, tự thệ bất giá. Kỳ gia bức chi, nãi một thuỷ nhi tử. Khanh văn chi, diệc tự ải ư đình thụ. Thời nhân thương chi, vi thi vân nhĩ

Năm Kiến An đời Hán mạt, tiểu lại phủ Lư Giang là Trọng Khanh có vợ họ Lưu, vì bị mẹ Trọng Khanh đuổi, thề không tái giá. Bị nhà bức ép, nhảy xuống nước tự vẫn. Khanh nghe tin, cũng tự thắt cổ ở cây trước sân. Có người thời đó thương tâm, làm thơ thuật lại.

"Nhạc phủ thi tập" xếp bài này vào "Tạp khúc ca từ", đề là "Tiêu Trọng Khanh thê" 焦仲卿妻. Hậu nhân thường dùng câu đầu làm đề nên còn gọi là "Khổng tước đông nam phi" 孔雀東南飛 (chim công bay về phương nam)


Căn cứ vào một số phong tục và địa danh dùng trong bài thơ, như "thanh lư" được dùng trong hôn lễ chỉ có ở Bắc triều, và "Giao, Quảng" thì Quảng châu chỉ có từ đời Tam quốc, nên có thuyết cho rằng bài thơ này được viết sau năm Kiến An (196-219). Tuy nhiên, căn cứ vào phong cách toàn bài, đa số đều công nhận rằng đây là một bài dân ca đời Hán, trong quá trình lưu truyền không thể tránh khỏi bị thay đổi hoặc thêm thắt. Bài dài 1775 chữ, được chia làm bốn đoạn, là bài thơ tự sự đỉnh cao nhất cả về nghệ thuật lẫn tư tưởng trong nhạc phủ đời Hán.


Nội dung bài ca được chia làm 4 đoạn:

 - Đoạn 1 kể về cuộc sống của Lan Chi khi làm dâu nhà họ Tiêu đến khi bị đuổi,

 - Đoạn 2 kể việc Lan Chi bị đuổi và cảnh chia tay với Trọng Khanh,

 - Đoạn 3 kể từ khi Lan Chi về nhà đến khi bị anh mình ép gả cho nhà quan Thái thú,

 - Đoạn 4 kể từ khi Lan Chi bị buộc tái giá đến khi nàng và Trọng Khanh tự tử.

Theo wikipedia.



Chàng "Trọng Khanh" trải lòng bằng ngón đàn Tremolo trên cây Tỳ Bà

Tỳ bà




Ghi chú: phần thơ sẽ giới thiệu ở mục Nhạc Phủ trang Thi Văn; tranh sẽ giới thiệu trong phần Hoạ


Lương chúc tấu khúc

đăng 07:55 13 thg 6, 2013 bởi Lỗ Bình Sơn   [ đã cập nhật 08:05 13 thg 6, 2013 ]

梁祝小提琴協奏曲

Lương Chúc Tiểu Đề Cầm Hiệp Tấu Khúc





Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài là một truyền thuyết Trung Quốc về chuyện tình bi thảm của một đôi trai gái, Lương Sơn Bá 梁山伯 và Chúc Anh Đài 祝英台 hay còn được viết tắt là Lương Chúc.

Trong Tuyên thất chí 宣室志 của Trương Độc 張讀 vào khoảng những năm 850-880 (cuối thời nhà Đường) có viết:

Anh Đài, con gái nhà họ Chúc ở Thượng Ngu, cải trang thành nam tử, cùng học với Lương Sơn Bá đến từ Cối Kê.Sơn Bá không biết Anh Đài là gái nên xem Anh Đài là bạn thân, hai ngươi cùng ở cùng phòng với nhau. Tự hiệu của Sơn Bá là Xử Nhân 處仁. Chúc Anh Đài quay về nhà trước. Hai năm sau, Lương Sơn Bá đến thăm nhà nàng, chỉ khi đó mới biết nàng là gái, vì thế cảm thấy buồn bã như mất đi điều thuộc về mình. [Lương Sơn Bá] muốn cầu hôn với cha mẹ [Chúc Anh Đài], nhưng gia đình nàng đã đồng ý gả nàng cho con trai nhà họ Mã. Sơn Bá nhậm chức huyện lệnh tại huyện Ngân (鄞, ngày nay là phía tây của Ninh Ba), sau đó chết tại nhiệm sở và được chôn cất tại phía tây thành Mậu (鄮, nay là phía đông của Ninh Ba). Khi Chúc Anh Đài được hộ tống đến nhà họ Mã bằng đường thủy thì thuyền cứ dừng lại trước mộ, không thể di chuyển được vì gió to và sóng cả. Sau khi biết rằng đó là mộ của Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài lên bờ kêu gào khóc thương, đất bỗng tự mở ra; Chúc Anh Đài vì thế cũng được chôn cất trong mộ. Tạ An, khi đó là thừa tướng nhà Tấn, tấu biểu cho đề lên mộ câu Nghĩa phụ trủng 義婦塚 tức mộ của người vợ có nghĩa.

Truyền thuyết này cũng được ghi chép lại trong nhiều tài liệu chính thức khác, như Ngân huyện chí 鄞縣志, Ninh Ba phủ chí 寧波府志 và Nghi Hưng Kinh khê tân chí.

Theo wikipedia

Trường tương tư

đăng 07:31 13 thg 6, 2013 bởi Lỗ Bình Sơn


長相思

YouTube Video



 

Lương Ý Nương 梁意娘

Đời hậu Chu (907- 955) thời Ngũ Đại, ở vùng sông Tiêu Tương tỉnh Hồ Nam có nàng Ý Nương vừa đẹp lại hay chữ . Nhà nàng có chàng Lý Sinh hàn sĩ phong lưu tuấn tú ở trọ. Có lần hai người gặp nhau lúc đi ngắm trăng, trai tài gái sắc tâm đầu ý hợp nên sau đó thường hay lui tới và đem lòng yêu nhau. Cha của Ý Nương là Lương Công hay chuyện tức giận bèn đuổi Lý sinh đi .

 

Ý Nương đau đớn, thương nhớ mà sinh bịnh rồi nàng làm bài Trường Tương Tư để gởi gắm niềm tâm sự của mình. Lý Sinh nhận được bài thơ cảm xót vô cùng, chàng nhờ người mai mối đến năn nỉ với Lương Công xin hỏi cưới Ý Nương. Ban đầu Lương Công còn dùng dằng nhưng sau đọc được bài thơ này của con gái mình, ông cảm động mà chấp nhận cho hai người nên duyên.

 
 

長相思

Trường Tương Tư

落花落葉落紛紛,

Lạc hoa lạc diệp lạc phân phân,

盡日思君不見君。

Tận nhật tư quân bất kiến quân.

腸欲斷兮腸欲斷,

Tràng dục đoạn hề tràng dục đoạn,

淚珠痕上更添痕。

Lệ châu ngân thượng canh thiêm ngân.

我有一寸心,

Ngã hữu nhất thốn tâm,

無人共我說。

Vô nhân cộng ngã thuyết.

願風吹散雲,

Nguyện phong xuy tán vân,

訴與天邊月。

Tố dữ thiên biên nguyệt.

攜琴上高樓,

Huề cầm thượng cao lâu,

樓高月花滿。

Lâu cao nguyệt hoa mãn.

相思未必終,

Tương tư vị tất chung,

淚滴琴玄斷。

Lệ tích cầm huyền đoạn.

人道湘江深,

Nhân đạo tương giang Thẩm,

未抵相思畔。

Vị để tương tư bạn.

江深終有底,

Giang Thẩm chung hữu để,

相思無邊岸。

Tương tư vô biên ngạn.

我在湘江頭,

Ngã tại tương giang đầu,

君在湘江尾。

Quân tại tương giang vĩ.

相思不相見,

Tương tư bất tương kiến,

同飲湘江水。

Đồng ẩm tương giang thủy.

夢魂飛不到,

Mộng hồn phi bất đáo,

所欠唯一死。

Sở khiếm duy nhất tử.

入我相思門,

Nhập ngã tương tư môn,

知我相思苦。

Tri ngã tương tư khổ.

長相思兮長相思,

Trưởng tương tư hề trưởng tương tư,

長相思兮無盡極。

Trưởng tương tư hề vô tận cực.

早知如此罫人心,

Tảo tri như thử quải nhân tâm,

迴不當初莫相識。

Hồi bất đương sơ mạc tương thức.

 

 

Tương tư dài

(Người dịch: Đinh Vũ Ngọc)

Hoa rơi lá rụng dàu dàu 
Suốt ngày mong nhớ nào đâu thấy nàng 
Nhớ thương đứt ruột, bầm gan 
Lệ rơi sùi sụt, từng hàng châu rơi! 

Em có một tấc lòng 
Biết cùng ai chia sẻ 
Nhờ gió đuổi mây đi 
Cùng trăng phân mọi lẽ. 

Ôm đàn lên lầu cao 
Lầu cao hoa trăng đầy 
Khúc tương tư chưa dứt 
Lệ rơi, đàn đứt dây. 

Người bảo sông Tương sâu 
Sâu chưa bằng nỗi nhớ 
Sông sâu còn có đáy 
Tương tư không có bờ. 

Đầu sông Tương em đợi 
Cuối sông Tương chàng mong 
Nhớ nhau mà chẳng gặp 
Cùng uống nước chung dòng. 

Hồn mộng bay chẳng đến 
Chỉ muốn chết cho xong 
Trong cảnh tương tư ấy 
Em tan nát cà lòng. 

Nhớ nhau hoài, nhớ nhau luôn 
Nhớ nhau chẳng dứt, càng thương nhớ nhiều 
Ví mà biết khổ vì yêu 
Thì ngày xưa ấy chẳng liều quen nhau!



1-10 of 14